Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
137334

LUẬT THI ĐUA - KHEN THƯỞNG

Ngày 17/10/2023 09:07:43

BÀI TUYÊN TRUYỀN LUẬT THI ĐUA KHEN THƯỞNG

 

Ngày 15/6/2022, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Thi đua, khen thưởng (Luật số 06/2022/QH15), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2024. Bộ Công an trân trọng giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

1. Cơ sở chính trị

Ngày 07/4/2014, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. 

Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tiếp tục làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày 07/02/2017, Văn phòng Trung ương Đảng có Văn bản số 3257-CV/VPTW thông báo Kết luận của Ban Bí thư: “Đề nghị Ban Cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, đề xuất trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, khen thưởng cho phù hợp tình hình mới”và chủ trương tặng thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” cho đối tượng là thanh niên xung phong tham gia kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 04/12/2020, Văn phòng Trung ương Đảng có Văn bản số 13843-CV/VPTW thông báo Kết luận của Ban Bí thư, trong đó có nội dung giao: “Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết công tác khen thưởng thời kỳ kháng chiến (hoàn thành và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong năm 2021)”.

2. Cơ sở thực tiễn

Luật Thi đua, khen thưởng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI (kỳ họp thứ 4) thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Luật Thi đua, khen thưởng (sau đây gọi tắt là Luật) đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013 là văn bản có giá trị pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Sau 17 năm thực hiện, Luật đã và đang đi vào cuộc sống, được các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả. Các phong trào thi đua yêu nước thời gian qua đã có đổi mới về nội dung, hình thức, thiết thực hơn. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức nhiều phong trào thi đua thu hút, tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên và Nhân dân tham gia hưởng ứng. Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến được quan tâm và có chuyển biến. Công tác khen thưởng đã mang lại tác dụng động viên, cổ vũ các tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong phong trào thi đua. Công tác phát hiện và đề nghị khen thưởng cho các trường hợp có thành tích đột xuất, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu; cá nhân, tập thể ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo đã được triển khai. Khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến được tập trung thực hiện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa quản lý công tác thi đua, khen thưởng đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

 Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn.

 Thứ nhất, về công tác thi đuaViệc tổ chức triển khai phong trào thi đua ở một số nơi còn hình thức, chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng Nhân dân. Phong trào nhiều nhưng hiệu quả, tác dụng một số phong trào thi đua chưa cao; một số nơi phong trào thi đua chưa gắn kết với thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác sơ kết, tổng kết phong trào thi đua chưa kịp thời. Nội dung, tiêu chí xét tặng danh hiệu thi đua và công nhận danh hiệu thi đua chưa thống nhất; chưa quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đơn vị, cơ sở trong chỉ đạo, triển khai tổ chức phong trào thi đua theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị. 

 Thứ hai, về công tác khen thưởng: Luật có đối tượng điều chỉnh rộng, liên quan đến toàn bộ hệ thống chính trị nhưng điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng chưa bao quát hết các đối tượng. Năm 2013, khi sửa đổi, bổ sung Luật đã có quy định điều kiện, tiêu chuẩn để khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số quy định về tiêu chuẩn khen thưởng chưa cụ thể, khó áp dụng với một số đối tượng, lĩnh vực.

 Công tác phát hiện và khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân lập được thành tích đột xuất chưa kịp thời. Luật hiện hành quy định các hình thức khen thưởng cấp nhà nước và các hình thức khác thuộc thẩm quyền của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, trên thực tế việc quy định thẩm quyền khen thưởng, phân cấp, phân quyền trong khen thưởng chưa đầy đủ, chưa tạo sự chủ động cho các cấp, các ngành nên chưa bao quát được hết các khu vực, đối tượng; tỷ lệ khen thưởng cấp nhà nước chưa cân đối, tập trung chủ yếu vào khen niên hạn, khen công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Một số chủ trương, quy định của Đảng về công tác khen thưởng chưa được thể chế hóa kịp thời.

 Thứ ba, về thủ tục, hồ sơ khen thưởng: Một số quy định về thủ tục, thành phần, số lượng hồ sơ chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính; quy định thủ tục, hồ sơ khen thưởng đối với một số loại hình khen thưởng chưa phù hợp.  

 Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng chưa được quy định cụ thể, đồng bộ để đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuyển đổi số quốc gia.

 Với các căn cứ nêu trên, việc ban hành Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 là cần thiết, nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, các nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thưkhắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành và quá trình tổ chức thực hiện Luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

1. Thể chế đường lối, chủ trương của Đảng về công tác thi đua khen thưởng; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào thi đua, hướng thi đua về cơ sở; gắn kết các phong trào thi đua yêu nước với thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cấp, các ngành và địa phương, đơn vị; gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, tạo sức lan tỏa trong toàn xã hội.

2. Việc sửa đổi, bổ sung Luật phải trên cơ sở kế thừa đầy đủ những ưu điểm của Luật hiện hành; nội dung sửa đổi, bổ sung bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và phù hợp với thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; bảo đảm bao quát hết các lĩnh vực, đối tượng; đồng thời thực hiện phân cấp về thẩm quyền việc khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các Bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cấp cơ sở nhằm giải quyết các hạn chế trong tổ chức phong trào thi đua; trong công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng. Sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn các hình thức khen thưởng, bảo đảm khen thưởng chính xác, không trùng lặp, chồng chéo; chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh; doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học; quan tâm khen thưởng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo; khắc phục cơ bản những hạn chế, vướng mắc về thẩm quyền, đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục khen thưởng.  

 3. Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và cả hệ thống chính trị, để công tác thi đua, khen thưởng đi vào thực chất, thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương và của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  

III. BỐ CỤC CỦA LUẬT

Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 gồm 08 chương, 96 điều; so với Luật Thi đua, khen thưởng 2003, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013, Luật này giữ nguyên về số chương và giảm 09 điều, cụ thể:      

1. Chương I. Những quy định chung, gồm 15 điều (từ Điều 1 đến Điều 15) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; mục tiêu, nguyên tắc thi đua, khen thưởng; danh hiệu thi đua; căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua; các loại hình khen thưởng; hình thức khen thưởng; căn cứ xét khen thưởng; quỹ thi đua, khen thưởng; hiện vật khen thưởng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác thi đua, khen thưởng; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức Việt Nam khi nhận hình thức khen thưởng của cá nhân, tổ chức nước ngoài và hành vi bị nghiêm cấm trong thi đua, khen thưởng.

2. Chương II. Tổ chức thi đua, danh hiệu thi đua và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, gồm 17 điều (từ Điều 16 đến Điều 32) quy định về hình thức, phạm vi tổ chức thi đua; nội dung tổ chức phong trào thi đua; thẩm quyền phát động, chỉ đạo phong trào thi đua; danh hiệu thi đua đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình; danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”; danh hiệu chiến sĩ thi đua Bộ, ban, ngành, tỉnh; danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến”; danh hiệu “Cờ thi đua của Chính phủ”; danh hiệu cờ thi đua của Bộ, ban, ngành, tỉnh; danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng”; danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến”; danh hiệu xã, phường, thị trấn tiêu biểu; danh hiệu thôn, tổ dân phố văn hóa; danh hiệu “Gia đình văn hóa”; các danh hiệu thi đua khác.

3. Chương III. Đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, gồm 44 điều (từ Điều 33 đến Điều 76) quy định về huân chương; “Huân chương Sao vàng”; “Huân chương Hồ Chí Minh”; “Huân chương Độc lập” hạng Nhất; “Huân chương Độc lập” hạng Nhì; “Huân chương Độc lập” hạng Ba; “Huân chương Quân công” hạng Nhất; “Huân chương Quân công” hạng Nhì; “Huân chương Quân công” hạng Ba; “Huân chương Lao động” hạng Nhất; “Huân chương Lao động” hạng Nhì; “Huân chương Lao động” hạng Ba; “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng Nhất; “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng Nhì; “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng Ba; “Huân chương Chiến công” hạng Nhất; “Huân chương Chiến công” hạng Nhì; “Huân chương Chiến công” hạng Ba; “Huân chương Đại đoàn kết dân tộc”; “Huân chương Dũng cảm”; “Huân chương Hữu nghị”; huy chương; “Huy chương Quân kỳ quyết thắng”; “Huy chương Vì an ninh Tổ quốc”; “Huy chương Chiến sĩ vẻ vang”; “Huy chương Hữu nghị”; danh hiệu vinh dự nhà nước; danh hiệu “Tỉnh Anh hùng”, “Thành phố Anh hùng”; danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”; danh hiệu “Anh hùng Lao động”; danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”; danh hiệu “Thầy thuốc nhân dân”, “Thầy thuốc ưu tú”; danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”; danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”; “Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước”; “Giải thưởng Hồ Chí Minh”; “Giải thưởng Nhà nước”; kỷ niệm chương; bằng khen; “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ”; bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh; giấy khen; hình thức bằng khen, giấy khen khác.

4. Chương IV. Thẩm quyền quyết định, trao tặng, thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng, gồm 09 điều (từ Điều 77 đến Điều 85) quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nướcthẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng, Thủ trưởng các Bộ, ban, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thẩm quyền của Thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có tư cách pháp nhân thuộc Bộ, ban, ngành, tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác; thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với các hình thức khen thưởng khác; thẩm quyền trao tặng; thẩm quyền đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng; hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng; khen thưởng theo thủ tục đơn giản.

5. Chương V. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tập thể, hộ gia đình trong thi đua, khen thưởng, gồm 02 điều (từ Điều 86 đến Điều 87) quy định về quyền của cá nhân, tập thể, hộ gia đình; nghĩa vụ của cá nhân, tập thể, hộ gia đình.

6. Chương VI. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về thi đua, khen thưởng, gồm 05 điều (từ Điều 88 đến Điều 92) quy định trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; hội đồng thi đua, khen thưởng; trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước; trách nhiệm của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

7. Chương VII. Xử lý vi phạm, gồm 01 điều (Điều 93) quy định về xử lý vi phạm về thi đua, khen thưởng.

8. Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 03 điều (từ Điều 94 đến Điều 96) quy định về hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp và khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến.

IV. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT

Nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã thể chế các quan điểm, định hướng đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Đảng vào 04 phương án chính sách xây dựng dự án Luật đã được Chính phủ thông qua. Trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống danh hiệu thi đua; hoàn thiện hệ thống hình thức khen thưởng; hoàn thiện chế định về thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; cải cách thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng. Cụ thể: Kế thừa đầy đủ những ưu điểm của Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành; bảo đảm bao quát hết các lĩnh vực đối tượng (khu vực công và khu vực tư); đồng thời, thực hiện phân cấp mạnh về thẩm quyền khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các Bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, và cấp cơ sở, góp phần giải quyết hạn chế, bất cập trong tổ chức phong trào thi đua, công tác khen thưởng và công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng. Bổ sung nguyên tắc khen thưởng “thành tích đến đâu, khen thưởng đến đó”, hoàn chỉnh các loại hình khen thưởng và hệ thống tiêu chuẩn các hình thức khen thưởng phù hợp; hạn chế tối đa tình trạng “tích lũy thành tích, cộng dồn thành tích trong khen thưởng”; hạn chế trùng lặp, chống chéo trong khen thưởng; chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh; doanh nhân, doanh nghiệp, tri thức, nhà khoa học; quan tâm khen thưởng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo; khắc phục cơ bản những hạn chế, vướng mắc về thẩm quyền, đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục khen thưởng. Thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác khen thưởng. Trong đó, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 có 08 nhóm điểm mới chủ yếu sau đây: 

1. Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh hơn trong công tác thi đua, khen thưởng

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa phân cấp về thẩm quyền quy định tiêu chuẩn cụ thể các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng thuộc các Bộ, ngành, địa phương; mặt khác, Luật cũng chưa phân định rõ về thẩm quyền khen thưởng theo chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành và chức năng quản lý nhà nước theo địa phương dẫn tới trường hợp khen thưởng chồng chéo, trùng lặp giữa quản lý ngành dọc và địa phương; chưa phân định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trình khen thưởng cho các tập thể, cá nhân thuộc thẩm quyền với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng các cấp. Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã thực hiện phân cấp về thẩm quyền việc khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các Bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cấp cơ sở nhằm giải quyết các hạn chế, bất cập trong tổ chức phong trào thi đua, trong công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến.Cụ thể, Luật đã bổ sung quy định Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quy định thẩm quyền công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” (Điều 24), “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến” (Điều 28); bổ sung quy định cụ thể thm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng các bộ, ban, ngành tặng danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Lao động tiên tiến” hoặc ủy quyền công nhận danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Lao động tiên tiến” cho cá nhân, tập thể thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc bộ, ban, ngành không có tư cách pháp nhân (khoản 3 Điều 79)Bên cạnh đó, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 quy định tiêu chuẩn chung đối với các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền của Bộ, ban, ngành, tỉnh; đồng thời, giao Bộ, ban, ngành, tỉnh trên cơ sở quy định chung của Luật, căn cứ đặc điểm, tình hình của từng đối tượng, lĩnh vực, ngành, nghề để quy định cụ thể một số nội dung được giao trong Luật, phù hợp với từng vùng miền, ngành, nghề của các Bộ, ngành, địa phương và để thực hiện chủ trương của Đảng là quan tâm khen thưởng cơ sở và người trực tiếp lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, chiến đấu. Cụ thể: Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” (Điều 24); Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu Cờ thi đua của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 26); Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng” (Điều 27)Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu  “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến” (Điều 28)Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” (Điều 29)Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Thôn, tổ dân phố văn hóa” (Điều 30)Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa” (Điều 31)Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn xét tặng Bằng khen cấp Bộ, ban, ngành, tỉnh đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình thuộc thẩm quyền quản lý (Điều 74); phân cấp cho Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn xét tặng Giấy khen đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình thuộc thẩm quyền quản lý (Điều 75).

Về trách nhiệm của người đứng đầu: 

Thực tiễn thi hành Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành cho thấy, nhận thức về vị trí, ý nghĩa của công tác thi đua, khen thưởng ở một số cơ quan, tổ chức, người đứng đầu chưa đầy đủ, sâu sắc, còn nặng về biện pháp hành chính, tổ chức nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động, nhưng việc phối hợp lồng ghép phong trào thi đua của các Bộ, ban, ngành, địa phương, các tổ chức quần chúng, các cuộc vận động với nhau còn lúng túng, dẫn đến chồng chéo; việc khắc phục khâu yếu, mặt yếu chuyển biến còn chậm, nhất là trong việc tổ chức, thực hiện các phong trào thi đua ở cơ sở, phát huy dân chủ, an toàn giao thông; việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao. Cơ quan tham mưu về thi đua, khen thưởng, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng một số cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình, tham mưu đề xuất cho lãnh đạo các cấp. Cơ chế hoạt động công tác thi đua, khen thưởng có nơi còn trùng lắp, chồng chéo, hiệu quả chưa cao, nhất là vai trò của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng ở cơ sở. Hiện tượng chạy theo thành tích vẫn còn tồn tại, làm suy giảm giá trị, tác dụng của phong trào thi đua; việc tổ chức chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua chưa đồng đều ở các vùng miền và các thành phần kinh tế (đặc biệt vùng nông thôn, địa bàn dân cư, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chưa được quan tâm chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua). Một số nơi phong trào thi đua còn hình thức, chưa gắn kết thi đua với thực hiện nhiệm vụ chính trị; nội dung, tiêu chí thi đua chưa cụ thể, chưa gắn với lợi ích của người lao động, chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân; hiệu quả, tác dụng của các phong trào thi đua còn chưa cao. Một số Bộ, ngành, địa phương công tác khen thưởng chưa bám sát các phong trào thi đua, chưa lấy kết quả phong trào thi đua làm căn cứ, cơ sở để khen thưởng nên tác dụng khen thưởng chưa cao; một số trường hợp còn thiếu chính xác, có đơn vị báo cáo không trung thực, chạy theo thành tích; cá biệt còn có tập thể, cá nhân được khen thưởng, nhưng thành tích chưa tiêu biểu và tạo sức lan tỏa; công tác tổ chức, chỉ đạo phát động, thực hiện phong trào thi đua yêu nước còn có hạn chế: nhiều cơ quan, đơn vị nhất là các cơ quan hành chính nhà nước chưa thực hiện tốt quy trình tổ chức phát động thi đua, như việc đăng ký thi đua không được thực hiện; công tác kiểm tra, đánh giá thi đua chưa được coi trọng, bình xét thi đua nể nang, cào bằng. Do vậy, việc tổ chức phát động, thực hiện phong trào thi đua còn hình thức và tác dụng chưa cao. 

Bên cạnh đó, để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi đua, khen thưởng, đồng thời tiếp tục quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm chuyển biến về nhận thức, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này, tạo động lực cách mạng của quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, vượt qua những khó khăn, thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, ngày 07/4/2014 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, theo đó “Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác thi đua, khen thưởng, tránh tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất. Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở, gắn với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân” gắn trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trách nhiệm của người đứng đầu, cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo về công tác thi đua, khen thưởng.

Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đồng thời quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung trách nhiệm người đứng đầu phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích để khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng (khoản 1 Điều 13), cụ thể: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả công tác thi đua, khen thưởng; phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích để khen thưởng theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng; nhân rộng điển hình tiên tiến; đánh giá thành tích; chịu trách nhiệm về quyết định khen thưởng và việc trình cấp trên khen thưởng”. Bổ sung trách nhiệm của cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng (khoản 6 Điều 83): “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức tham mưu, giúp việc về công tác thi đua, khen thưởng có trách nhiệm phát hiện cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc, tiêu biểu để đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng”; trách nhiệm của cơ quan báo chí (khoản 4 Điều 13): “Cơ quan báo chí có trách nhiệm thực hiện quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này và thường xuyên tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; tích cực tham gia phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích xuất sắc; phổ biến, nêu gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, góp phần cổ vũ, khích lệ phong trào thi đua. Công tác tuyên truyền phản ánh đúng kết quả của phong trào thi đua và công tác khen thưởng; kịp thời phản ánh, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng” 

2. Thể hiện rõ nguyên tắc thành tích đến đâu, khen đến đó và đề cao tính kịp thời của hình thức khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được để khắc phục tình trạng khen thưởng "tích lũy thành tích, cộng dn thành tích” trước đây

 Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành quy định thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, nhưng có tiêu chuẩn để xét khen thưởng theo Luật thì lại mang tính niên hạn, cộng dồn thành tích, trình tự từ thấp đến cao. Ngoài ra, quy định đối với khen thưởng cấp cao là phải đạt thành tích liên tục, nếu bị gián đoạn thì phải bắt đầu lại từ đầu, điều này không chỉ mang tính cộng dồn thành tích theo thâm niên mà còn làm giảm tính phấn đấu của người lao động, không khuyến khích được sự nỗ lực của cá nhân (hình thức này chỉ phù hợp với khen thưởng theo niên hạn đối với lãnh đạo hoặc đối với lực lượng vũ trang theo quy định hiện hành). Đồng thời, Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế đã xác định: “Thực hiện đổi mới công tác khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch; coi trọng việc phát hiện, lựa chọn các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc để khen thưởng”. Chính vì vậy, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung nguyên tắc “thành tích đến đâu khen thưởng đến đó" (đim c khoản 2 Điều 5) và được thể hiện trong các điều, khoản của từng hình thức khen thưởng được quy định trong Luật về tiêu chuẩn, thành tích đạt được và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lập được thành tích. Đặc biệt, Luật đã bổ sung quy định “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” là tiêu chuẩn có thế thay thế nếu không có sáng kiến, đề tài, đề án (khoản 2 Điều 23). 

3. Đưa phong trào thi đua hướng về cơ sở, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, thiết thực, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở 4 khâu (phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến)

Hiện nay, quy định về các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng trong Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa phù hợp ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở, đặc biệt, Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa có những quy định ràng buộc chặt chẽ, có hệ thống để tạo ra mô hình khen thưởng theo hình chóp; một số quy định về thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua và khen thưởng còn thể hiện sự bất cập, không hợp lý; quy định tiêu chuẩn của một số danh hiệu thi đua và khen thưởng cao, nhưng tiêu chuẩn lại thấp hơn dẫn đến xu hướng dồn lên các hình thức khen thưởng cấp bộ và cấp nhà nước. Khen thưởng nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý; khen thưởng tập thể nhỏ và lao động trực tiếp còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các kỳ đại hội; chưa có quy định tiêu chuẩn sáng kiến hoặc đề tài khoa học, đề án khoa học để làm cơ sở xét tặng danh hiệu thi đua. Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đưa phong trào thi đua hướng về cơ sở, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, thiết thực, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở 4 khâu (phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến), Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã sửa đổi, bổ sung một số điều nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”. Trong đó, đã quy định rõ trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, đơn vị, cơ sở trong tổ chức triển khai phong trào thi đua, để việc phát động, triển khai các phong trào thi đua trong thời gian tới phải thực sự thiết thực, hướng về cơ sở, gắn kết với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua. Cụ thể, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã sửa đổi, bổ sung một số tiêu chí, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua đã thực hiện ổn định thời gian qua để phù hợp hơn với thực tiễn, bổ sung danh hiệu “Cờ thi đua của Chính phủ” cho tập thể dẫn đầu phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động có thời gian thực hiện từ 05 năm trở lên khi sơ kết, tổng kết phong trào (khoản 3 Điều 25) và danh hiệu Cờ thi đua của Bộ, ban, ngành, tỉnh cho tập thể dẫn đầu phong trào thi đua theo chuyên đề do Bộ, ban, ngành, tỉnh phát động có thời gian thực hiện từ 03 năm trở lên khi tổng kết phong trào (khoản 2 Điều 26) để phát huy tác dụng khích lệ, động viên phong trào. 

Cùng với đó, xuất phát từ thực tiễn triển khai các phong trào thi đua thời gian qua, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung danh hiệu “xã, phường, thị trấn tiêu biểu” (Điều 29)Thực tế hiện nay, triển khai thực hiện phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” cấp xã được công nhận danh hiệu: “Xã đạt chuẩn nông thôn mới; phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn đô thị văn minh”. Với tốc độ thực hiện xây dựng nông thôn mới hiện nay, tương lai gần sẽ phủ kín các danh hiệu trên. Vì vậy, việc xét tặng danh hiệu “xã, phường, thị trấn tiêu biểu”, ‘‘thôntổ dân phố văn hóa’’ và ‘‘gia đình văn hóa’’sẽ nâng các tiêu chuẩn của các danh hiệu thi đua hiện hành lên mức cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng xét tặng các danh hiệu thi đua

 Bên cạnh đó, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 cũng bổ sung tiêu chuẩn sáng kiến hoặc đề tài khoa học, đề án khoa học để làm cơ sở xét tặng danh hiệu thi đua (các điều 21, 22, 23)Việc quy định tiêu chuẩn “Có sáng kiến, đề án khoa học, đề tài khoa học...” để xét tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua” các cấp đối với cá nhân được áp dụng cho tất cả các đối tượng (không chỉ cán bộ, công chức, viên chức) nhằm thúc đẩy sự nghiên cứu, phát huy sáng kiến, sáng tạo của cá nhân trong quá trình lao động, học tập, công tác. Mặt khác, tiêu chuẩn “có sáng kiến, đề án khoa học, đề tài khoa học”… thể hiện tính tiêu biểu, nổi bật của cá nhân trong phong trào thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối với danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” nếu bỏ quy định “sáng kiến” thì những đối tượng như công nhân, nông dân… sẽ không thể đạt được danh hiệu này do không có bình xét thi đua hằng năm, như vậy chưa thống nhất với quan điểm hướng về người lao động trực tiếp. 

4. Chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, công nhân, nông dân người lao động trực tiếp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ...; quan tâm khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo

Luật Thi đua, khen thưởng là Luật có đối tượng điều chỉnh rộng liên quan đến cả hệ thống chính trị, các cơ quan nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp; tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp; các dân tộc, vùng, miền; các tôn giáo và chức sắc tôn giáo; các thành phần trí thức, công nhân, nông dân; các lứa tuổi thanh niên, thiếu niên, người cao tuổi; các tổ chức hội; các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành, điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng cụ thể chủ yếu tập trung vào đội ngũ là cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; cán bộ lãnh đạo, quản lý hoạt động, công tác qua các thời kỳ, chưa bao quát, cụ thể đối tượng đông đảo quần chúng trong cả nước (công nhân, nông dân, trí thức…). Mặt khác, các quy định về tiêu chuẩn trong Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành còn chung chung, định tính, chưa cụ thể và định lượng; phải điều chỉnh bằng Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn. Do đó, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Mặc dù, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013 đã có quy định điều kiện, tiêu chuẩn để khen thưởng cho nông dân, người lao động trực tiếp, nhưng hiện nay trong quá trình tổ chức thực hiện nhiều nơi thực hiện chưa nghiêm dẫn đến khen thưởng không trúng thành tích, khen thưởng chưa kịp thời, việc khen thưởng vẫn tập trung nhiều vào cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính vì vậy, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, công nhân, nông dân người lao động trực tiếp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ...; quan tâm khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Luật đã bổ sung nguyên tắc tại điểm d khoản 2 Điều 5: “Chú trọng khen thưởng cá nhân, tập thể, hộ gia đình trực tiếp lao động, sản xuất, kinh doanh; cá nhân, tập thể công tác ở địa bàn biên giới, trên biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”; bổ sung đối tượng dân quân thường trực, dân quân tự vệ cơ động là đối tượng được xét tặng danh hiệu “Chiến sĩ tiên tiến” (khoản 2 Điều 24); 

Bổ sung đối tượng khen thưởng Huân chương Lao động các hạng (các điều 42, 43 và 44), “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” (Điều 73), Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 74) là nông dân, công nhân, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác; doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học; cá nhân, tập thể có đóng góp lớn vào sự phát triên kinh tế, xã hội; ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ; công tác xã hội, từ thiện, nhân đạo; bổ sung đối tượng được xét tặng danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú” cho đối tượng là cán bộ nghiên cứu giáo dục (Điều 64); bổ sung đối tượng xét danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú”, “Thấy thuốc nhân dân” cho đối tượng là “hộ sinh” (khoản 1 Điều 65); bổ sung đối tượng xét danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” cho đối tượng là “người sáng tạo tác phẩm văn hóa nghệ thuật” (khoản 1 Điều 66); bổ sung cách tính thời gian (nhân hệ số 2) làm tiêu chuẩn đề xét tặng danh hiệu vinh dự nhà nước đối với cán bộ y tế, giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (khoản 4 các điều 64 và 65). 

5. Giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong khen thưởng ở khu vực ngoài nhà nước và kinh tế tư nhân 

Pháp luật hiện hành về thi đua, khen thưởng đã có các quy định về việc biểu dương, tôn vinh các đối tượng là doanh nhân, doanh nghiệp có đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai thực hiện còn một số hạn chế, bất cập như: Có Bộ, ngành, đoàn thể chưa thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật khi trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức các giải thưởng phạm vi toàn quốc; trong quá trình tổ chức chưa thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, tổ chức bình xét chưa bám sát các tiêu chí đã đề ra, không đảm bảo tính khách quan và chính xác, dẫn đến một số doanh nghiệp, doanh nhân được tôn vinh, biểu dương, nhưng thành tích chưa tiêu biểu xuất sắc; một số giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, do các cơ quan, đơn vị không có thẩm quyền tổ chức ở nước ngoài khi không được sự đồng ý của chính quyền nước sở tại hoặc vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung, hình thức; có tình trạng yêu cầu các doanh nghiệp, doanh nhân tham gia giải thưởng nộp kinh phí để được giải thưởng gây ảnh hưởng đến quan hệ với bạn bè quốc tế, gây bức xúc cho chính các doanh nghiệp, doanh nhân đạt giải và dư luận không tốt trong xã hội. Vì vậy, tại khoản 2 Điều 81 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 bổ sung nguyên tắc xét tôn vinh và trao tặng giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác: “Doanh nhân, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác có đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được xét tôn vinh và trao tặng danh hiệu, giải thưởng. Việc xét tôn vinh và trao tặng danh hiệu, giải thưởng thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: (a) Việc xét tặng và công bố các danh hiệu, giải thưởng phải được tổ chức công khai, khách quan, công bằng, bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, bảo đảm không trái với các quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; (b) Mỗi cơ quan, tổ chức chỉ được tổ chức tối đa 02 giải thưởng hoặc danh hiệu có phạm vi toàn quốc. Tên gọi, nội dung của danh hiệu, giải thưởng phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý, hoạt động của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật”. Việc bổ sung quy định nguyên tắc xét tôn vinh và trao tặng giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ, toàn diện để thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng cũng như quản lý nhà nước đối với việc tổ chức các giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân. Bên cạnh đó, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên trong khen thưởng ở khu vực ngoài nhà nước và kinh tế tư nhânLuật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã quy định cụ thể đối tượng khen thưởng Huân chương Lao động các hạng (các điu 42, 43 và 44), “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” (Điều 73), Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 74) cho đối tượng là doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học, đồng thời đã bổ sung thm quyền trình khen thưởng đi với doanh nghiệp do Chính phủ quy định (khoản 7 Điều 83): “Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền đề nghị, trình khen thưởng đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác”.

6. Quy định cụ thể khen thưởng đối với người nước ngoài có nhiều đóng góp cho đất nước Việt Nam

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành đã có các quy định về việc biểu dương, tôn vinh các đối tượng là người nước ngoài, tập thể người nước ngoài có đóng góp to lớn trong xây dựng, củng cố và phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới; đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, tuy nhiên, các quy định này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: chưa quy định đối tượng khen thưởng là cá nhân người nước ngoài đối với Huân chương Hồ Chí Minhcá nhân, tập thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tập thể người nước ngoài đi với Huân chương Độc lập và Huân chương Lao động các hạng; chưa có quy định cụ thể đối tượng, tiêu chun khen thưởng Huy chương Hữu nghị. Chính vì vậy, nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, trong đó xác định rõ: “Chủ động xem xét, khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước ngoài có đóng góp lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của Việt Nam, có nhiều thành tích trong việc củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế”, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung đối tượng khen thưởng là cá nhân người nước ngoài đối với Huân chương Hồ Chí Minh (Điều 35); cá nhân, tập thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tập thể người nước ngoài đi với Huân chương Độc lập các hạng (các điu 36, 37 và 38), Huân chương Lao động các hạng (các điều 42, 43 và 44); quy định cụ thể đối tượng, tiêu chun khen thưởng Huy chương Hữu nghị (Điều 58). 

7. Bổ sung hình thức khen thưởng kháng chiến “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” (khoản 2 Điều 96)

Công tác khen thưởng thành tích kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tuy đã được triển khai theo Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành từ nhiều năm và đến nay cơ bản đã hoàn thành, song chưa thực hiện đầy đủ (mới triển khai khen thưởng thành tích kháng chiến từ ngày 30/4/1975 trở về trước và trường hợp còn tồn đọng đã bổ sung hồ sơ đủ căn cứ pháp lý, các trường hợp mới phát hiện đủ điều kiện, tiêu chuẩn). Chính vì vậy, nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, trong đó xác định rõ: “Tập trung giải quyết dứt điểm việc khen thưởng thành tích trong các cuộc kháng chiến và thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng có công lao, thành tích, cống hiến trong các cuộc kháng chiến của dân tộc”.

Thực hiện Kết luận của Ban Bí thư (tại Công văn số 3257-CV/VPTW ngày 07/02/2017) và Kết luận của Bộ Chính trị (tại Văn bản số 11-TB/TW ngày 29/3/2022 thông báo ý kiến của Bộ Chính trị về khen thưởng thành tích kháng chiến), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý, bổ sung hình thức khen thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” cho thanh niên xung phong có thành tích trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc như quy định tại khoản 2 Điều 96 của Luật “thực hiện tặng và truy tặng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” đối với Thanh niên xung phong có thành tích trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ, trung thành với cách mạng, có thời gian tại ngũ từ 02 năm trở lên. Thanh niên xung phong hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc đã được công nhận liệt sĩ thì được truy tặng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang”. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lưu ý Chính phủ rà soát đối tượng Thanh niên xung phong thời kỳ bảo vệ Tổ quốc, quy định chặt chẽ để bảo đảm ý nghĩa của hình thức khen thưởng này khi thực hiện nhiệm vụ được giao tại khoản 3 của Điều 96. Để thể chế hóa Kết luận của Bộ Chính trị và tren cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý, trình Quốc hội xem xét thông qua. Theo đó, tại khoản 1 Điều 96 của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã quy định như sau: “Nhà nước tiếp tục xem xét, thực hiện, hoàn thành khen thưởng thành tích kháng chiến trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc đối với cá nhân, tập thể, gia đình đủ điều kiện, tiêu chuẩn”. Đồng thời, Chính phủ hướng dẫn thực hiện quy định này.

8. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thi đua, khen thưởng 

- Giảm số lượng hồ sơ đề nghị khen thưởng Nhà nước (khoản 4 Điều 84); Bổ sung quy định về hồ sơ, thủ tục khen thưởng theo thủ tục đơn giản (khoản 1 Điều 85). 

Về cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi đua, khen thưởng, Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa quy định về quy trình, thủ tục, hồ sơ đối với các trường hợp được cấp trên phát hiện, đề nghị khen thưởng cũng như một số quy định về thủ tục, hồ sơ còn rườm rà, phức tạp chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính (phải xin ý kiến nhiều cơ quan khác nhau, thông qua nhiều cấp), dẫn đến thời gian thẩm định hồ sơ dài, không kịp thời, làm giảm ý nghĩa, tác dụng của khen thưởng. Chính vì vậy, để thực hiện chủ trương đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho tập thể, cá nhân khi đề nghị khen thưởng, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 quy định cải cách thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm số lượng hồ sơ đề nghị khen thưởng Nhà nước (khoản 4 Điều 84), cụ thể: “Trường hợp trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xét khen thưởng thì người có thẩm quyền đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 83 của Luật này gửi đến cơ quan chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng ở trung ương 01 bộ hồ sơ bản chính kèm theo các tệp tin điện tử của hồ sơ, trừ văn bản có nội dung bí mật nhà nước”.

Đồng thời, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 bổ sung quy định về hồ sơ, thủ tục khen thưởng theo thủ tục đơn giản (khoản 1 Điều 85), cụ thể: “Việc đề nghị xét tặng hình thức khen thưởng theo thủ tục đơn giản được áp dụng đối với các trường hợp sau đây: (a) Việc khen thưởng phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước nhằm kịp thời động viên, khích lệ quần chúng; (b) Cá nhân, tập thể lập được thành tích xuất sắc đột xuất trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, trong lao động, công tác, sản xuất, kinh doanh, học tập và nghiên cứu khoa học hoặc lĩnh vực khác hoặc có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của Nhân dân hoặc được giải thưởng quốc tế của khu vực hoặc thế giới; (c) Khen thưởng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phát hiện; (d) Khen thưởng cống hiến, khen thưởng niên hạn, khen thưởng đối ngoại; (đ) Khen thưởng thành tích có nội dung bí mật nhà nước”.

- B sung quy định “Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng và trong hệ thống thi đua, khen thưởng” là một nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng (điểm e khoản 2 Điều 89). 

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng, nên thực tế hiện nay, công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong thi đua, khen thưởng vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục khen thưởng vẫn phải thực hiện đồng thời 02 phương thức điện tử và bản giấy. Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tra cứu kết quả khen thưởng vẫn chưa đảm bảo sự liên thông giữa các cơ quan thực hiện thủ tục hành chính do có sự khác nhau trong sử dụng mạng. Chính vì vậy, quán triệt chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, trong đó đã xác định rõ: “Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng”, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung quy định: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng và trong hệ thống thi đua, khen thưởng, xây dựng cơ sở dữ liệu về thi đua, khen thưởng” là một nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng để thể chế hóa chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước.

Với các chính sách đột phá nêu trên, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 kỳ vọng sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và cả hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng để công tác thi đua, khen thưởng đi vào thực chất, thực sự là động lực thúc đy phát triển kinh tế - xã hội, góp phn thực hiện thng lợi nhiệm vụ của từng Bộ, ban, ngành, địa phương và của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ T quc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

      

LUẬT THI ĐUA - KHEN THƯỞNG

Đăng lúc: 17/10/2023 09:07:43 (GMT+7)

BÀI TUYÊN TRUYỀN LUẬT THI ĐUA KHEN THƯỞNG

 

Ngày 15/6/2022, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Thi đua, khen thưởng (Luật số 06/2022/QH15), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2024. Bộ Công an trân trọng giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

1. Cơ sở chính trị

Ngày 07/4/2014, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. 

Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tiếp tục làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày 07/02/2017, Văn phòng Trung ương Đảng có Văn bản số 3257-CV/VPTW thông báo Kết luận của Ban Bí thư: “Đề nghị Ban Cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, đề xuất trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, khen thưởng cho phù hợp tình hình mới”và chủ trương tặng thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” cho đối tượng là thanh niên xung phong tham gia kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 04/12/2020, Văn phòng Trung ương Đảng có Văn bản số 13843-CV/VPTW thông báo Kết luận của Ban Bí thư, trong đó có nội dung giao: “Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết công tác khen thưởng thời kỳ kháng chiến (hoàn thành và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong năm 2021)”.

2. Cơ sở thực tiễn

Luật Thi đua, khen thưởng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI (kỳ họp thứ 4) thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Luật Thi đua, khen thưởng (sau đây gọi tắt là Luật) đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013 là văn bản có giá trị pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Sau 17 năm thực hiện, Luật đã và đang đi vào cuộc sống, được các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả. Các phong trào thi đua yêu nước thời gian qua đã có đổi mới về nội dung, hình thức, thiết thực hơn. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức nhiều phong trào thi đua thu hút, tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên và Nhân dân tham gia hưởng ứng. Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến được quan tâm và có chuyển biến. Công tác khen thưởng đã mang lại tác dụng động viên, cổ vũ các tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong phong trào thi đua. Công tác phát hiện và đề nghị khen thưởng cho các trường hợp có thành tích đột xuất, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu; cá nhân, tập thể ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo đã được triển khai. Khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến được tập trung thực hiện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa quản lý công tác thi đua, khen thưởng đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

 Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn.

 Thứ nhất, về công tác thi đuaViệc tổ chức triển khai phong trào thi đua ở một số nơi còn hình thức, chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng Nhân dân. Phong trào nhiều nhưng hiệu quả, tác dụng một số phong trào thi đua chưa cao; một số nơi phong trào thi đua chưa gắn kết với thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác sơ kết, tổng kết phong trào thi đua chưa kịp thời. Nội dung, tiêu chí xét tặng danh hiệu thi đua và công nhận danh hiệu thi đua chưa thống nhất; chưa quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đơn vị, cơ sở trong chỉ đạo, triển khai tổ chức phong trào thi đua theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị. 

 Thứ hai, về công tác khen thưởng: Luật có đối tượng điều chỉnh rộng, liên quan đến toàn bộ hệ thống chính trị nhưng điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng chưa bao quát hết các đối tượng. Năm 2013, khi sửa đổi, bổ sung Luật đã có quy định điều kiện, tiêu chuẩn để khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số quy định về tiêu chuẩn khen thưởng chưa cụ thể, khó áp dụng với một số đối tượng, lĩnh vực.

 Công tác phát hiện và khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân lập được thành tích đột xuất chưa kịp thời. Luật hiện hành quy định các hình thức khen thưởng cấp nhà nước và các hình thức khác thuộc thẩm quyền của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, trên thực tế việc quy định thẩm quyền khen thưởng, phân cấp, phân quyền trong khen thưởng chưa đầy đủ, chưa tạo sự chủ động cho các cấp, các ngành nên chưa bao quát được hết các khu vực, đối tượng; tỷ lệ khen thưởng cấp nhà nước chưa cân đối, tập trung chủ yếu vào khen niên hạn, khen công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Một số chủ trương, quy định của Đảng về công tác khen thưởng chưa được thể chế hóa kịp thời.

 Thứ ba, về thủ tục, hồ sơ khen thưởng: Một số quy định về thủ tục, thành phần, số lượng hồ sơ chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính; quy định thủ tục, hồ sơ khen thưởng đối với một số loại hình khen thưởng chưa phù hợp.  

 Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng chưa được quy định cụ thể, đồng bộ để đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuyển đổi số quốc gia.

 Với các căn cứ nêu trên, việc ban hành Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 là cần thiết, nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, các nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thưkhắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành và quá trình tổ chức thực hiện Luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

1. Thể chế đường lối, chủ trương của Đảng về công tác thi đua khen thưởng; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào thi đua, hướng thi đua về cơ sở; gắn kết các phong trào thi đua yêu nước với thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cấp, các ngành và địa phương, đơn vị; gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, tạo sức lan tỏa trong toàn xã hội.

2. Việc sửa đổi, bổ sung Luật phải trên cơ sở kế thừa đầy đủ những ưu điểm của Luật hiện hành; nội dung sửa đổi, bổ sung bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và phù hợp với thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; bảo đảm bao quát hết các lĩnh vực, đối tượng; đồng thời thực hiện phân cấp về thẩm quyền việc khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các Bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cấp cơ sở nhằm giải quyết các hạn chế trong tổ chức phong trào thi đua; trong công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng. Sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn các hình thức khen thưởng, bảo đảm khen thưởng chính xác, không trùng lặp, chồng chéo; chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh; doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học; quan tâm khen thưởng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo; khắc phục cơ bản những hạn chế, vướng mắc về thẩm quyền, đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục khen thưởng.  

 3. Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và cả hệ thống chính trị, để công tác thi đua, khen thưởng đi vào thực chất, thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương và của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  

III. BỐ CỤC CỦA LUẬT

Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 gồm 08 chương, 96 điều; so với Luật Thi đua, khen thưởng 2003, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013, Luật này giữ nguyên về số chương và giảm 09 điều, cụ thể:      

1. Chương I. Những quy định chung, gồm 15 điều (từ Điều 1 đến Điều 15) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; mục tiêu, nguyên tắc thi đua, khen thưởng; danh hiệu thi đua; căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua; các loại hình khen thưởng; hình thức khen thưởng; căn cứ xét khen thưởng; quỹ thi đua, khen thưởng; hiện vật khen thưởng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác thi đua, khen thưởng; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức Việt Nam khi nhận hình thức khen thưởng của cá nhân, tổ chức nước ngoài và hành vi bị nghiêm cấm trong thi đua, khen thưởng.

2. Chương II. Tổ chức thi đua, danh hiệu thi đua và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, gồm 17 điều (từ Điều 16 đến Điều 32) quy định về hình thức, phạm vi tổ chức thi đua; nội dung tổ chức phong trào thi đua; thẩm quyền phát động, chỉ đạo phong trào thi đua; danh hiệu thi đua đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình; danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”; danh hiệu chiến sĩ thi đua Bộ, ban, ngành, tỉnh; danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến”; danh hiệu “Cờ thi đua của Chính phủ”; danh hiệu cờ thi đua của Bộ, ban, ngành, tỉnh; danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng”; danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến”; danh hiệu xã, phường, thị trấn tiêu biểu; danh hiệu thôn, tổ dân phố văn hóa; danh hiệu “Gia đình văn hóa”; các danh hiệu thi đua khác.

3. Chương III. Đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, gồm 44 điều (từ Điều 33 đến Điều 76) quy định về huân chương; “Huân chương Sao vàng”; “Huân chương Hồ Chí Minh”; “Huân chương Độc lập” hạng Nhất; “Huân chương Độc lập” hạng Nhì; “Huân chương Độc lập” hạng Ba; “Huân chương Quân công” hạng Nhất; “Huân chương Quân công” hạng Nhì; “Huân chương Quân công” hạng Ba; “Huân chương Lao động” hạng Nhất; “Huân chương Lao động” hạng Nhì; “Huân chương Lao động” hạng Ba; “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng Nhất; “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng Nhì; “Huân chương Bảo vệ Tổ quốc” hạng Ba; “Huân chương Chiến công” hạng Nhất; “Huân chương Chiến công” hạng Nhì; “Huân chương Chiến công” hạng Ba; “Huân chương Đại đoàn kết dân tộc”; “Huân chương Dũng cảm”; “Huân chương Hữu nghị”; huy chương; “Huy chương Quân kỳ quyết thắng”; “Huy chương Vì an ninh Tổ quốc”; “Huy chương Chiến sĩ vẻ vang”; “Huy chương Hữu nghị”; danh hiệu vinh dự nhà nước; danh hiệu “Tỉnh Anh hùng”, “Thành phố Anh hùng”; danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”; danh hiệu “Anh hùng Lao động”; danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”; danh hiệu “Thầy thuốc nhân dân”, “Thầy thuốc ưu tú”; danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”; danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”; “Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước”; “Giải thưởng Hồ Chí Minh”; “Giải thưởng Nhà nước”; kỷ niệm chương; bằng khen; “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ”; bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh; giấy khen; hình thức bằng khen, giấy khen khác.

4. Chương IV. Thẩm quyền quyết định, trao tặng, thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng, gồm 09 điều (từ Điều 77 đến Điều 85) quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nướcthẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng, Thủ trưởng các Bộ, ban, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thẩm quyền của Thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có tư cách pháp nhân thuộc Bộ, ban, ngành, tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác; thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với các hình thức khen thưởng khác; thẩm quyền trao tặng; thẩm quyền đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng; hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng; khen thưởng theo thủ tục đơn giản.

5. Chương V. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tập thể, hộ gia đình trong thi đua, khen thưởng, gồm 02 điều (từ Điều 86 đến Điều 87) quy định về quyền của cá nhân, tập thể, hộ gia đình; nghĩa vụ của cá nhân, tập thể, hộ gia đình.

6. Chương VI. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về thi đua, khen thưởng, gồm 05 điều (từ Điều 88 đến Điều 92) quy định trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; hội đồng thi đua, khen thưởng; trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước; trách nhiệm của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

7. Chương VII. Xử lý vi phạm, gồm 01 điều (Điều 93) quy định về xử lý vi phạm về thi đua, khen thưởng.

8. Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 03 điều (từ Điều 94 đến Điều 96) quy định về hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp và khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến.

IV. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT

Nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã thể chế các quan điểm, định hướng đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Đảng vào 04 phương án chính sách xây dựng dự án Luật đã được Chính phủ thông qua. Trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống danh hiệu thi đua; hoàn thiện hệ thống hình thức khen thưởng; hoàn thiện chế định về thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; cải cách thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng. Cụ thể: Kế thừa đầy đủ những ưu điểm của Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành; bảo đảm bao quát hết các lĩnh vực đối tượng (khu vực công và khu vực tư); đồng thời, thực hiện phân cấp mạnh về thẩm quyền khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các Bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, và cấp cơ sở, góp phần giải quyết hạn chế, bất cập trong tổ chức phong trào thi đua, công tác khen thưởng và công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng. Bổ sung nguyên tắc khen thưởng “thành tích đến đâu, khen thưởng đến đó”, hoàn chỉnh các loại hình khen thưởng và hệ thống tiêu chuẩn các hình thức khen thưởng phù hợp; hạn chế tối đa tình trạng “tích lũy thành tích, cộng dồn thành tích trong khen thưởng”; hạn chế trùng lặp, chống chéo trong khen thưởng; chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh; doanh nhân, doanh nghiệp, tri thức, nhà khoa học; quan tâm khen thưởng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo; khắc phục cơ bản những hạn chế, vướng mắc về thẩm quyền, đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục khen thưởng. Thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác khen thưởng. Trong đó, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 có 08 nhóm điểm mới chủ yếu sau đây: 

1. Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh hơn trong công tác thi đua, khen thưởng

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa phân cấp về thẩm quyền quy định tiêu chuẩn cụ thể các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng thuộc các Bộ, ngành, địa phương; mặt khác, Luật cũng chưa phân định rõ về thẩm quyền khen thưởng theo chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành và chức năng quản lý nhà nước theo địa phương dẫn tới trường hợp khen thưởng chồng chéo, trùng lặp giữa quản lý ngành dọc và địa phương; chưa phân định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trình khen thưởng cho các tập thể, cá nhân thuộc thẩm quyền với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng các cấp. Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã thực hiện phân cấp về thẩm quyền việc khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các Bộ, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cấp cơ sở nhằm giải quyết các hạn chế, bất cập trong tổ chức phong trào thi đua, trong công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến.Cụ thể, Luật đã bổ sung quy định Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quy định thẩm quyền công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” (Điều 24), “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến” (Điều 28); bổ sung quy định cụ thể thm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng các bộ, ban, ngành tặng danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Lao động tiên tiến” hoặc ủy quyền công nhận danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Lao động tiên tiến” cho cá nhân, tập thể thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc bộ, ban, ngành không có tư cách pháp nhân (khoản 3 Điều 79)Bên cạnh đó, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 quy định tiêu chuẩn chung đối với các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền của Bộ, ban, ngành, tỉnh; đồng thời, giao Bộ, ban, ngành, tỉnh trên cơ sở quy định chung của Luật, căn cứ đặc điểm, tình hình của từng đối tượng, lĩnh vực, ngành, nghề để quy định cụ thể một số nội dung được giao trong Luật, phù hợp với từng vùng miền, ngành, nghề của các Bộ, ngành, địa phương và để thực hiện chủ trương của Đảng là quan tâm khen thưởng cơ sở và người trực tiếp lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, chiến đấu. Cụ thể: Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” (Điều 24); Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu Cờ thi đua của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 26); Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng” (Điều 27)Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu  “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến” (Điều 28)Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” (Điều 29)Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Thôn, tổ dân phố văn hóa” (Điều 30)Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa” (Điều 31)Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn xét tặng Bằng khen cấp Bộ, ban, ngành, tỉnh đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình thuộc thẩm quyền quản lý (Điều 74); phân cấp cho Bộ, ban, ngành, tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn xét tặng Giấy khen đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình thuộc thẩm quyền quản lý (Điều 75).

Về trách nhiệm của người đứng đầu: 

Thực tiễn thi hành Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành cho thấy, nhận thức về vị trí, ý nghĩa của công tác thi đua, khen thưởng ở một số cơ quan, tổ chức, người đứng đầu chưa đầy đủ, sâu sắc, còn nặng về biện pháp hành chính, tổ chức nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động, nhưng việc phối hợp lồng ghép phong trào thi đua của các Bộ, ban, ngành, địa phương, các tổ chức quần chúng, các cuộc vận động với nhau còn lúng túng, dẫn đến chồng chéo; việc khắc phục khâu yếu, mặt yếu chuyển biến còn chậm, nhất là trong việc tổ chức, thực hiện các phong trào thi đua ở cơ sở, phát huy dân chủ, an toàn giao thông; việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao. Cơ quan tham mưu về thi đua, khen thưởng, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng một số cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình, tham mưu đề xuất cho lãnh đạo các cấp. Cơ chế hoạt động công tác thi đua, khen thưởng có nơi còn trùng lắp, chồng chéo, hiệu quả chưa cao, nhất là vai trò của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng ở cơ sở. Hiện tượng chạy theo thành tích vẫn còn tồn tại, làm suy giảm giá trị, tác dụng của phong trào thi đua; việc tổ chức chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua chưa đồng đều ở các vùng miền và các thành phần kinh tế (đặc biệt vùng nông thôn, địa bàn dân cư, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chưa được quan tâm chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua). Một số nơi phong trào thi đua còn hình thức, chưa gắn kết thi đua với thực hiện nhiệm vụ chính trị; nội dung, tiêu chí thi đua chưa cụ thể, chưa gắn với lợi ích của người lao động, chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân; hiệu quả, tác dụng của các phong trào thi đua còn chưa cao. Một số Bộ, ngành, địa phương công tác khen thưởng chưa bám sát các phong trào thi đua, chưa lấy kết quả phong trào thi đua làm căn cứ, cơ sở để khen thưởng nên tác dụng khen thưởng chưa cao; một số trường hợp còn thiếu chính xác, có đơn vị báo cáo không trung thực, chạy theo thành tích; cá biệt còn có tập thể, cá nhân được khen thưởng, nhưng thành tích chưa tiêu biểu và tạo sức lan tỏa; công tác tổ chức, chỉ đạo phát động, thực hiện phong trào thi đua yêu nước còn có hạn chế: nhiều cơ quan, đơn vị nhất là các cơ quan hành chính nhà nước chưa thực hiện tốt quy trình tổ chức phát động thi đua, như việc đăng ký thi đua không được thực hiện; công tác kiểm tra, đánh giá thi đua chưa được coi trọng, bình xét thi đua nể nang, cào bằng. Do vậy, việc tổ chức phát động, thực hiện phong trào thi đua còn hình thức và tác dụng chưa cao. 

Bên cạnh đó, để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi đua, khen thưởng, đồng thời tiếp tục quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm chuyển biến về nhận thức, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này, tạo động lực cách mạng của quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, vượt qua những khó khăn, thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, ngày 07/4/2014 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, theo đó “Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác thi đua, khen thưởng, tránh tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất. Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở, gắn với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân” gắn trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trách nhiệm của người đứng đầu, cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo về công tác thi đua, khen thưởng.

Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đồng thời quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung trách nhiệm người đứng đầu phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích để khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng (khoản 1 Điều 13), cụ thể: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả công tác thi đua, khen thưởng; phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích để khen thưởng theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng; nhân rộng điển hình tiên tiến; đánh giá thành tích; chịu trách nhiệm về quyết định khen thưởng và việc trình cấp trên khen thưởng”. Bổ sung trách nhiệm của cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng (khoản 6 Điều 83): “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức tham mưu, giúp việc về công tác thi đua, khen thưởng có trách nhiệm phát hiện cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc, tiêu biểu để đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng”; trách nhiệm của cơ quan báo chí (khoản 4 Điều 13): “Cơ quan báo chí có trách nhiệm thực hiện quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này và thường xuyên tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; tích cực tham gia phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích xuất sắc; phổ biến, nêu gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, góp phần cổ vũ, khích lệ phong trào thi đua. Công tác tuyên truyền phản ánh đúng kết quả của phong trào thi đua và công tác khen thưởng; kịp thời phản ánh, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng” 

2. Thể hiện rõ nguyên tắc thành tích đến đâu, khen đến đó và đề cao tính kịp thời của hình thức khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được để khắc phục tình trạng khen thưởng "tích lũy thành tích, cộng dn thành tích” trước đây

 Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành quy định thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, nhưng có tiêu chuẩn để xét khen thưởng theo Luật thì lại mang tính niên hạn, cộng dồn thành tích, trình tự từ thấp đến cao. Ngoài ra, quy định đối với khen thưởng cấp cao là phải đạt thành tích liên tục, nếu bị gián đoạn thì phải bắt đầu lại từ đầu, điều này không chỉ mang tính cộng dồn thành tích theo thâm niên mà còn làm giảm tính phấn đấu của người lao động, không khuyến khích được sự nỗ lực của cá nhân (hình thức này chỉ phù hợp với khen thưởng theo niên hạn đối với lãnh đạo hoặc đối với lực lượng vũ trang theo quy định hiện hành). Đồng thời, Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế đã xác định: “Thực hiện đổi mới công tác khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch; coi trọng việc phát hiện, lựa chọn các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc để khen thưởng”. Chính vì vậy, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung nguyên tắc “thành tích đến đâu khen thưởng đến đó" (đim c khoản 2 Điều 5) và được thể hiện trong các điều, khoản của từng hình thức khen thưởng được quy định trong Luật về tiêu chuẩn, thành tích đạt được và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lập được thành tích. Đặc biệt, Luật đã bổ sung quy định “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” là tiêu chuẩn có thế thay thế nếu không có sáng kiến, đề tài, đề án (khoản 2 Điều 23). 

3. Đưa phong trào thi đua hướng về cơ sở, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, thiết thực, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở 4 khâu (phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến)

Hiện nay, quy định về các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng trong Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa phù hợp ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở, đặc biệt, Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa có những quy định ràng buộc chặt chẽ, có hệ thống để tạo ra mô hình khen thưởng theo hình chóp; một số quy định về thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua và khen thưởng còn thể hiện sự bất cập, không hợp lý; quy định tiêu chuẩn của một số danh hiệu thi đua và khen thưởng cao, nhưng tiêu chuẩn lại thấp hơn dẫn đến xu hướng dồn lên các hình thức khen thưởng cấp bộ và cấp nhà nước. Khen thưởng nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý; khen thưởng tập thể nhỏ và lao động trực tiếp còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các kỳ đại hội; chưa có quy định tiêu chuẩn sáng kiến hoặc đề tài khoa học, đề án khoa học để làm cơ sở xét tặng danh hiệu thi đua. Chính vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đưa phong trào thi đua hướng về cơ sở, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, thiết thực, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở 4 khâu (phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến), Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã sửa đổi, bổ sung một số điều nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”. Trong đó, đã quy định rõ trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, đơn vị, cơ sở trong tổ chức triển khai phong trào thi đua, để việc phát động, triển khai các phong trào thi đua trong thời gian tới phải thực sự thiết thực, hướng về cơ sở, gắn kết với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua. Cụ thể, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã sửa đổi, bổ sung một số tiêu chí, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua đã thực hiện ổn định thời gian qua để phù hợp hơn với thực tiễn, bổ sung danh hiệu “Cờ thi đua của Chính phủ” cho tập thể dẫn đầu phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động có thời gian thực hiện từ 05 năm trở lên khi sơ kết, tổng kết phong trào (khoản 3 Điều 25) và danh hiệu Cờ thi đua của Bộ, ban, ngành, tỉnh cho tập thể dẫn đầu phong trào thi đua theo chuyên đề do Bộ, ban, ngành, tỉnh phát động có thời gian thực hiện từ 03 năm trở lên khi tổng kết phong trào (khoản 2 Điều 26) để phát huy tác dụng khích lệ, động viên phong trào. 

Cùng với đó, xuất phát từ thực tiễn triển khai các phong trào thi đua thời gian qua, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung danh hiệu “xã, phường, thị trấn tiêu biểu” (Điều 29)Thực tế hiện nay, triển khai thực hiện phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” cấp xã được công nhận danh hiệu: “Xã đạt chuẩn nông thôn mới; phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn đô thị văn minh”. Với tốc độ thực hiện xây dựng nông thôn mới hiện nay, tương lai gần sẽ phủ kín các danh hiệu trên. Vì vậy, việc xét tặng danh hiệu “xã, phường, thị trấn tiêu biểu”, ‘‘thôntổ dân phố văn hóa’’ và ‘‘gia đình văn hóa’’sẽ nâng các tiêu chuẩn của các danh hiệu thi đua hiện hành lên mức cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng xét tặng các danh hiệu thi đua

 Bên cạnh đó, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 cũng bổ sung tiêu chuẩn sáng kiến hoặc đề tài khoa học, đề án khoa học để làm cơ sở xét tặng danh hiệu thi đua (các điều 21, 22, 23)Việc quy định tiêu chuẩn “Có sáng kiến, đề án khoa học, đề tài khoa học...” để xét tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua” các cấp đối với cá nhân được áp dụng cho tất cả các đối tượng (không chỉ cán bộ, công chức, viên chức) nhằm thúc đẩy sự nghiên cứu, phát huy sáng kiến, sáng tạo của cá nhân trong quá trình lao động, học tập, công tác. Mặt khác, tiêu chuẩn “có sáng kiến, đề án khoa học, đề tài khoa học”… thể hiện tính tiêu biểu, nổi bật của cá nhân trong phong trào thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối với danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” nếu bỏ quy định “sáng kiến” thì những đối tượng như công nhân, nông dân… sẽ không thể đạt được danh hiệu này do không có bình xét thi đua hằng năm, như vậy chưa thống nhất với quan điểm hướng về người lao động trực tiếp. 

4. Chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, công nhân, nông dân người lao động trực tiếp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ...; quan tâm khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo

Luật Thi đua, khen thưởng là Luật có đối tượng điều chỉnh rộng liên quan đến cả hệ thống chính trị, các cơ quan nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp; tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp; các dân tộc, vùng, miền; các tôn giáo và chức sắc tôn giáo; các thành phần trí thức, công nhân, nông dân; các lứa tuổi thanh niên, thiếu niên, người cao tuổi; các tổ chức hội; các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành, điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng cụ thể chủ yếu tập trung vào đội ngũ là cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; cán bộ lãnh đạo, quản lý hoạt động, công tác qua các thời kỳ, chưa bao quát, cụ thể đối tượng đông đảo quần chúng trong cả nước (công nhân, nông dân, trí thức…). Mặt khác, các quy định về tiêu chuẩn trong Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành còn chung chung, định tính, chưa cụ thể và định lượng; phải điều chỉnh bằng Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn. Do đó, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Mặc dù, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013 đã có quy định điều kiện, tiêu chuẩn để khen thưởng cho nông dân, người lao động trực tiếp, nhưng hiện nay trong quá trình tổ chức thực hiện nhiều nơi thực hiện chưa nghiêm dẫn đến khen thưởng không trúng thành tích, khen thưởng chưa kịp thời, việc khen thưởng vẫn tập trung nhiều vào cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính vì vậy, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, công nhân, nông dân người lao động trực tiếp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ...; quan tâm khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Luật đã bổ sung nguyên tắc tại điểm d khoản 2 Điều 5: “Chú trọng khen thưởng cá nhân, tập thể, hộ gia đình trực tiếp lao động, sản xuất, kinh doanh; cá nhân, tập thể công tác ở địa bàn biên giới, trên biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”; bổ sung đối tượng dân quân thường trực, dân quân tự vệ cơ động là đối tượng được xét tặng danh hiệu “Chiến sĩ tiên tiến” (khoản 2 Điều 24); 

Bổ sung đối tượng khen thưởng Huân chương Lao động các hạng (các điều 42, 43 và 44), “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” (Điều 73), Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 74) là nông dân, công nhân, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác; doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học; cá nhân, tập thể có đóng góp lớn vào sự phát triên kinh tế, xã hội; ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ; công tác xã hội, từ thiện, nhân đạo; bổ sung đối tượng được xét tặng danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú” cho đối tượng là cán bộ nghiên cứu giáo dục (Điều 64); bổ sung đối tượng xét danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú”, “Thấy thuốc nhân dân” cho đối tượng là “hộ sinh” (khoản 1 Điều 65); bổ sung đối tượng xét danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” cho đối tượng là “người sáng tạo tác phẩm văn hóa nghệ thuật” (khoản 1 Điều 66); bổ sung cách tính thời gian (nhân hệ số 2) làm tiêu chuẩn đề xét tặng danh hiệu vinh dự nhà nước đối với cán bộ y tế, giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (khoản 4 các điều 64 và 65). 

5. Giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong khen thưởng ở khu vực ngoài nhà nước và kinh tế tư nhân 

Pháp luật hiện hành về thi đua, khen thưởng đã có các quy định về việc biểu dương, tôn vinh các đối tượng là doanh nhân, doanh nghiệp có đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai thực hiện còn một số hạn chế, bất cập như: Có Bộ, ngành, đoàn thể chưa thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật khi trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức các giải thưởng phạm vi toàn quốc; trong quá trình tổ chức chưa thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, tổ chức bình xét chưa bám sát các tiêu chí đã đề ra, không đảm bảo tính khách quan và chính xác, dẫn đến một số doanh nghiệp, doanh nhân được tôn vinh, biểu dương, nhưng thành tích chưa tiêu biểu xuất sắc; một số giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, do các cơ quan, đơn vị không có thẩm quyền tổ chức ở nước ngoài khi không được sự đồng ý của chính quyền nước sở tại hoặc vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung, hình thức; có tình trạng yêu cầu các doanh nghiệp, doanh nhân tham gia giải thưởng nộp kinh phí để được giải thưởng gây ảnh hưởng đến quan hệ với bạn bè quốc tế, gây bức xúc cho chính các doanh nghiệp, doanh nhân đạt giải và dư luận không tốt trong xã hội. Vì vậy, tại khoản 2 Điều 81 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 bổ sung nguyên tắc xét tôn vinh và trao tặng giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác: “Doanh nhân, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác có đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được xét tôn vinh và trao tặng danh hiệu, giải thưởng. Việc xét tôn vinh và trao tặng danh hiệu, giải thưởng thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: (a) Việc xét tặng và công bố các danh hiệu, giải thưởng phải được tổ chức công khai, khách quan, công bằng, bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, bảo đảm không trái với các quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; (b) Mỗi cơ quan, tổ chức chỉ được tổ chức tối đa 02 giải thưởng hoặc danh hiệu có phạm vi toàn quốc. Tên gọi, nội dung của danh hiệu, giải thưởng phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý, hoạt động của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật”. Việc bổ sung quy định nguyên tắc xét tôn vinh và trao tặng giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ, toàn diện để thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng cũng như quản lý nhà nước đối với việc tổ chức các giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân. Bên cạnh đó, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên trong khen thưởng ở khu vực ngoài nhà nước và kinh tế tư nhânLuật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã quy định cụ thể đối tượng khen thưởng Huân chương Lao động các hạng (các điu 42, 43 và 44), “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” (Điều 73), Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 74) cho đối tượng là doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học, đồng thời đã bổ sung thm quyền trình khen thưởng đi với doanh nghiệp do Chính phủ quy định (khoản 7 Điều 83): “Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền đề nghị, trình khen thưởng đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác”.

6. Quy định cụ thể khen thưởng đối với người nước ngoài có nhiều đóng góp cho đất nước Việt Nam

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành đã có các quy định về việc biểu dương, tôn vinh các đối tượng là người nước ngoài, tập thể người nước ngoài có đóng góp to lớn trong xây dựng, củng cố và phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới; đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, tuy nhiên, các quy định này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: chưa quy định đối tượng khen thưởng là cá nhân người nước ngoài đối với Huân chương Hồ Chí Minhcá nhân, tập thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tập thể người nước ngoài đi với Huân chương Độc lập và Huân chương Lao động các hạng; chưa có quy định cụ thể đối tượng, tiêu chun khen thưởng Huy chương Hữu nghị. Chính vì vậy, nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, trong đó xác định rõ: “Chủ động xem xét, khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước ngoài có đóng góp lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của Việt Nam, có nhiều thành tích trong việc củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế”, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung đối tượng khen thưởng là cá nhân người nước ngoài đối với Huân chương Hồ Chí Minh (Điều 35); cá nhân, tập thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tập thể người nước ngoài đi với Huân chương Độc lập các hạng (các điu 36, 37 và 38), Huân chương Lao động các hạng (các điều 42, 43 và 44); quy định cụ thể đối tượng, tiêu chun khen thưởng Huy chương Hữu nghị (Điều 58). 

7. Bổ sung hình thức khen thưởng kháng chiến “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” (khoản 2 Điều 96)

Công tác khen thưởng thành tích kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tuy đã được triển khai theo Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành từ nhiều năm và đến nay cơ bản đã hoàn thành, song chưa thực hiện đầy đủ (mới triển khai khen thưởng thành tích kháng chiến từ ngày 30/4/1975 trở về trước và trường hợp còn tồn đọng đã bổ sung hồ sơ đủ căn cứ pháp lý, các trường hợp mới phát hiện đủ điều kiện, tiêu chuẩn). Chính vì vậy, nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, trong đó xác định rõ: “Tập trung giải quyết dứt điểm việc khen thưởng thành tích trong các cuộc kháng chiến và thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng có công lao, thành tích, cống hiến trong các cuộc kháng chiến của dân tộc”.

Thực hiện Kết luận của Ban Bí thư (tại Công văn số 3257-CV/VPTW ngày 07/02/2017) và Kết luận của Bộ Chính trị (tại Văn bản số 11-TB/TW ngày 29/3/2022 thông báo ý kiến của Bộ Chính trị về khen thưởng thành tích kháng chiến), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý, bổ sung hình thức khen thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” cho thanh niên xung phong có thành tích trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc như quy định tại khoản 2 Điều 96 của Luật “thực hiện tặng và truy tặng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” đối với Thanh niên xung phong có thành tích trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ, trung thành với cách mạng, có thời gian tại ngũ từ 02 năm trở lên. Thanh niên xung phong hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc đã được công nhận liệt sĩ thì được truy tặng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang”. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lưu ý Chính phủ rà soát đối tượng Thanh niên xung phong thời kỳ bảo vệ Tổ quốc, quy định chặt chẽ để bảo đảm ý nghĩa của hình thức khen thưởng này khi thực hiện nhiệm vụ được giao tại khoản 3 của Điều 96. Để thể chế hóa Kết luận của Bộ Chính trị và tren cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý, trình Quốc hội xem xét thông qua. Theo đó, tại khoản 1 Điều 96 của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã quy định như sau: “Nhà nước tiếp tục xem xét, thực hiện, hoàn thành khen thưởng thành tích kháng chiến trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc đối với cá nhân, tập thể, gia đình đủ điều kiện, tiêu chuẩn”. Đồng thời, Chính phủ hướng dẫn thực hiện quy định này.

8. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thi đua, khen thưởng 

- Giảm số lượng hồ sơ đề nghị khen thưởng Nhà nước (khoản 4 Điều 84); Bổ sung quy định về hồ sơ, thủ tục khen thưởng theo thủ tục đơn giản (khoản 1 Điều 85). 

Về cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi đua, khen thưởng, Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa quy định về quy trình, thủ tục, hồ sơ đối với các trường hợp được cấp trên phát hiện, đề nghị khen thưởng cũng như một số quy định về thủ tục, hồ sơ còn rườm rà, phức tạp chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính (phải xin ý kiến nhiều cơ quan khác nhau, thông qua nhiều cấp), dẫn đến thời gian thẩm định hồ sơ dài, không kịp thời, làm giảm ý nghĩa, tác dụng của khen thưởng. Chính vì vậy, để thực hiện chủ trương đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho tập thể, cá nhân khi đề nghị khen thưởng, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 quy định cải cách thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm số lượng hồ sơ đề nghị khen thưởng Nhà nước (khoản 4 Điều 84), cụ thể: “Trường hợp trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xét khen thưởng thì người có thẩm quyền đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 83 của Luật này gửi đến cơ quan chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng ở trung ương 01 bộ hồ sơ bản chính kèm theo các tệp tin điện tử của hồ sơ, trừ văn bản có nội dung bí mật nhà nước”.

Đồng thời, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 bổ sung quy định về hồ sơ, thủ tục khen thưởng theo thủ tục đơn giản (khoản 1 Điều 85), cụ thể: “Việc đề nghị xét tặng hình thức khen thưởng theo thủ tục đơn giản được áp dụng đối với các trường hợp sau đây: (a) Việc khen thưởng phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước nhằm kịp thời động viên, khích lệ quần chúng; (b) Cá nhân, tập thể lập được thành tích xuất sắc đột xuất trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, trong lao động, công tác, sản xuất, kinh doanh, học tập và nghiên cứu khoa học hoặc lĩnh vực khác hoặc có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của Nhân dân hoặc được giải thưởng quốc tế của khu vực hoặc thế giới; (c) Khen thưởng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phát hiện; (d) Khen thưởng cống hiến, khen thưởng niên hạn, khen thưởng đối ngoại; (đ) Khen thưởng thành tích có nội dung bí mật nhà nước”.

- B sung quy định “Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng và trong hệ thống thi đua, khen thưởng” là một nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng (điểm e khoản 2 Điều 89). 

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành chưa quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng, nên thực tế hiện nay, công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong thi đua, khen thưởng vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục khen thưởng vẫn phải thực hiện đồng thời 02 phương thức điện tử và bản giấy. Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tra cứu kết quả khen thưởng vẫn chưa đảm bảo sự liên thông giữa các cơ quan thực hiện thủ tục hành chính do có sự khác nhau trong sử dụng mạng. Chính vì vậy, quán triệt chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, trong đó đã xác định rõ: “Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng”, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã bổ sung quy định: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng và trong hệ thống thi đua, khen thưởng, xây dựng cơ sở dữ liệu về thi đua, khen thưởng” là một nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng để thể chế hóa chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước.

Với các chính sách đột phá nêu trên, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 kỳ vọng sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và cả hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng để công tác thi đua, khen thưởng đi vào thực chất, thực sự là động lực thúc đy phát triển kinh tế - xã hội, góp phn thực hiện thng lợi nhiệm vụ của từng Bộ, ban, ngành, địa phương và của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ T quc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.